Ngày hội Gia đình Việt Nam là hoạt
động được tổ chức hằng năm nhằm hưởng ứng và kỷ niệm Ngày Gia đình Việt Nam
28/6.
Ngày Gia đình Việt Nam được tổ chức
hàng năm ở cấp Trung ương, diễn ra từ ngày 28 - 30/6. Đây là hoạt động có ý
nghĩa nhằm tôn vinh những giá trị truyền thống, là dịp để các gia đình giao
lưu, chia sẻ kinh nghiệm xây dựng gia đình văn hóa, hướng tới sự phát triển bền
vững của gia đình Việt Nam trong thời kỳ hội nhập…

Ngày gia đình Việt Nam 2021 với chủ
đề: "Giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa ứng xử tốt đẹp
trong gia đình năm 2021".
Nhà trường thực hiện tuyên truyền các nội
dung sau:
1. Phòng, chống bạo lực gia đình,
bình đẳng trong gia đình.
2. Giá trị gia đình và giáo dục gia
đình
3. Thông điệp giá trị gia đình.
BÀI TUYÊN TRUYỀN VỀ VẤN ĐỀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH
Bạo lực gia đình là vấn nạn của xã
hội, gây nhức nhối cho nhân loại, để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng cho con
người, nhất là đối với phụ nữ, trẻ em. Ở Việt Nam, trong những năm qua, Đảng và
Nhà nước ta đã dành nhiều sự quan tâm tới việc phòng, chống bạo lực gia đình và
đã ban hành nhiều đạo luật trực tiếp và gián tiếp như: Hiến pháp, Luật Hôn nhân
và gia đình, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Bộ luật Dân sự,.. và đặc
biệt Luật phòng, chống bạo lực gia đình 2007. Những văn bản này đã tạo ra nhiều
chuyển biến tích cực trong đời sống xã hội trong lĩnh vực phòng, chống bạo lực
gia đình. Nhưng đánh giá một cách khách quan thì các quy phạm pháp luật này
chưa thực sự đi vào cuộc sống, sự quan tâm và hiểu biết về lĩnh vực này chưa đi
vào chiều sâu, tình trạng bạo lực trong gia đình chưa có nhiều thay đổi và chưa
có những chuyển biến tích cực . Hơn thế nữa , hiện nay nó dần trở thành như một
sự việc,hiện tượng đáng quan tâm của toàn xã hội.

Gia đình là chiếc nôi giữ
gìn những giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc cho thế hệ sau
I. THỰC TRẠNG BẠO LỰC GIỮA CÁC THÀNH
VIÊN TRONG GIA ĐÌNH
Bạo lực gia đình xuất phát từ cả hai phía vợ và chồng đang ngày
càng phát triển và gây nhức nhối trong xã hội, gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến
các thành viên khác trong gia đình, đặc biệt là trẻ em. Nguyên nhân của hiện
tượng này rất nhiều, ngoài vấn đề tâm lý còn phải kể đến vấn đề đạo đức, kiến
thức giải quyết mâu thuẫn gia đình: là do họ không nhận thức được rằng hành vi của mình là vi phạm pháp
luật, không chỉ dừng lại ở những hành vi bạo lực mà còn ở những lời lẽ chửi
bới, những cách ứng xử thô bạo mà họ còn trực tiếp gây ra những tổn thương về
thể chất hoặc tính mạng của người chồng.
Ngoài ra hiện nay còn có tình trạng
bạo lực giữa cha mẹ và con cái. Với tâm lý, truyền thống, thói quen của
người Việt, thì vấn đề bạo lực giữa cha mẹ với con cái được xã hội chấp
nhận và khá phổ biến. Đặc biệt, là những trường hợp bạo lực với con cái vượt
ra ngoài phạm vi giáo dục - một tình trạng ngày càng gia tăng thì cần phải bị
trừng trị nghiêm khắc. Bên cạnh những hành vi từ phía cha mẹ đối với con
cái, thì bạo lực gia đình xuất phát từ người con đối với cha mẹ mình cũng đang
ngày càng gia tăng. Một số trường hợp người trẻ tuổi gây ra những tổn thương về
cả vật chất, tinh thần cho cha mẹ do sự thiếu kiềm chế, do đua đòi hư hỏng hoặc
một vài lý do khác. Điều này chứng tỏ một sự xuống cấp đạo đức nghiêm
trọng của một bộ phận giới trẻ hiện nay, nó hoàn toàn đi ngược lại với truyền
thống đề cao chữ “hiếu” của dân tộc Việt Nam.
Bạo lực gia đình giữa các thành viên khác trong gia đình với nhau
cũng đã tồn tại từ lâu nhưng chiến tỷ lệ không lớn, vì mức độ phụ thuộc giữa
các thành viên này không cao như giữa vợ chồng hay cha mẹ với con. Nạn nhân chủ
yếu của loại bạo lực này là phụ nữ và trẻ em khi mà các thành viên này muốn
tham gia vào sự “giáo dục” những người làm dâu, làm con trong gia đình. Ngoài
ra, những mâu thuẩn trong gia đình không tìm được cách giải quyết cũng dẫn tới
nạn bạo lực giữa các thành viên khác: anh em, chú cháu đánh nhau vì xích mích,
mâu thuẫn trong cuộc sống, vì tranh chấp tài sản, chị em mắng chửi, nói xấu
nhau.
II. THẾ NÀO LÀ BẠO LỰC VÀ BẠO LỰC GIA ĐÌNH?
Bạo lực
gia đình là một dạng thức của bạo lực xã hội, là “hành vi cố ý của thành
viên gia đình gây tổn hại hoặc có khả năng gây tổn hại về thể chất, tinh thần,
kinh tế đối với thành viên khác trong gia đình” (Điều 1 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình 2007). Gia đình là tế bào của xã hội, là hình thức thu
nhỏ của xã hội nên bạo lực gia đình có thể coi là hình thức thu nhỏ của bạo lực
xã hội với nhiều dạng thức khác nhau. Xét về hình thức, có thể chia bạo lực gia
đình thành các hình thức chủ yếu sau:
- Bạo lực về thể chất: là hành vi ngược đãi, đánh đập thành viên
gia đình, làmtổn thương tới sức khỏe, tính mạng của họ.
- Bạo lực về tinh thần: là những lời nói, thái độ, hành vi làm tổn
thương tới danh dự, nhân phẩm, tâm lý của thành viên gia đình
- Bạo lực về kinh tế: là hành vi xâm phạm tới các quyền lợi về
kinh tế của thành viên gia đình (quyền sở hữu tài sản, quyền tự do lao động)
- Bạo lực về tình dục: là bất kỳ hành vi nào mang tính chất cưỡng
ép trong các quan hệ tình dục giữa các thành viên gia đình, kể cả việc cưỡng ép
sinh con.
Mỗi hình thức bạo lực có thể được biểu hiện dưới nhiều hành vi
khác nhau. Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã quy định các hành vi bạo lực
bao gồm:
-Hành hạ, ngược đãi, đánh đập hoặc hành vi cố ý khác xâm hại đến
sức khoẻ, tính mạng;
- Lăng mạ hoặc hành vi cố ý khác xúc phạm danh dự, nhân phẩm;
- Cô lập, xua đuổi hoặc gây áp lực thường xuyên về tâm lý gây hậu
quả nghiêm trọng;
- Ngăn cản việc thực hiện quyền, nghĩa vụ trong quan hệ gia đình
giữa ông, bà và cháu; giữa cha, mẹ và con; giữa vợ và chồng; giữa anh, chị, em
với nhau;
- Cưỡng ép quan hệ tình dục;
- Cưỡng ép tảo hôn; cưỡng ép kết hôn, ly hôn hoặc cản trở hôn nhân
tự nguyện, tiến bộ;
- Chiếm đoạt, huỷ hoại, đập phá hoặc có hành vi khác cố ý làm hư
hỏng tài sản riêng của thành viên khác trong gia đình hoặc tài sản chung của
các thành viên gia đình;
- Cưỡng ép thành viên gia đình lao động quá sức, đóng góp tài
chính quá khả năng của họ; kiểm soát thu nhập của thành viên gia đình nhằm tạo
ra tình trạng phụ thuộc về tài chính;
- Có hành vi trái pháp luật buộc thành viên gia đình ra khỏi chỗ
ở.
III. NGUYÊN TẮC PHÒNG, CHỐNG BẠO LỰC GIA ĐÌNH
Theo quy định tại Khoản 1
Điều 3 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, nguyên tắc phòng, chống bạo lực gia
đình gồm: “Kết hợp và thực hiện đồng bộ các biện pháp
phòng, chống bạo lực gia đình, lấy phòng ngừa là chính, chú trọng công tác
tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hoà giải phù hợp với truyền thống
văn hoá, phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc Việt Nam”. Đây là nguyên tắc chủ đạo trong phòng, chống bạo
lực gia đình bởi nhiều lý do. Xuất phát từ thực tế quan hệ trong gia đình mang
tính khép kín, với các thành viên gia đình cũng như những người xung quanh,
việc trong gia đình thì người ngoài ít có cơ hội xen vào.Vì thế những vụ bạo
lực gia đình thường khó phát hiện, khi bị phát hiện cũng khó xử lý bởi tâm lý e
ngại của nạn nhân và cả những người biết chuyện, và thậm chí nếu xử lý rồi thì
khả năng tái diễn cũng rất cao vì để tìm ra biện pháp ngăn chặn phù hợp là
không dễ. Các quy định pháp luật khó vươn tới từng gia đình, bởi nhận thức của
người dân về vấn đề này còn hạn chế, sự can thiệp thô bạo của pháp luật có thể
dẫn tới phá hoại các mối quan hệ các thành viên gia đình. Chính vì vậy, công
tác tuyên truyền, giáo dục về gia đình, tư vấn, hòa giải trong vấn đề này là
rất quan trọng, góp phần định hướng hành vi của mỗi người: nạn nhân được trang
bị kiến thức để tự bảo vệ; người có thể có hành vi bạo lực có thể nhận thức
được tính chất, hậu quả của hành vi để tự kiềm chế tốt hơn; những người xung
quanh biết được trách nhiệm tham gia phòng chống bạo lực gia đình và có ứng xử
phù hợp.

Việc tuyên truyền giáo dục nếu kết hợp với truyền thống văn hóa,
phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc thì sẽ càng được phát huy tốt hơn nữa,
bởi vì người Việt Nam nói chung chịu tác động khá lớn từ những tư tưởng này.
Đặc biệt, ở những quan niệm “phép vua thua lệ làng”, trình độ dân trí thấp thì
việc giáo dục người dân thông qua các phong tục, tập quán mới có thể phát huy
hiệu quả lớn nhất.
Hành vi bạo lực gia đình được phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp
thời theo quy định của pháp luật. Đây là một trong những nguyên tắc chung của pháp luật. Riêng trong
lĩnh vực bạo lực gia đình, việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý kịp thời các hành
vi càng có ý nghĩa quan trọng, nếu không thì có thể trở thành “thói quen”, được
chấp nhận với cả nạn nhân, người vi phạm và người xung quanh.
Bên cạnh đó, hành vi bạo lực càng kéo dài thì càng gây ra nhiều
tổn thương cho nạn nhân, tổn thương tới mối quan hệ gia đình. Điều này sẽ được
hạn chế rất nhiều nếu hành vi bị phát hiện và xử lý kịp thời. “Nạn nhân bạo
lực gia đình được bảo vệ, giúp đỡ kịp thời phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của
họ và điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước; ưu tiên bảo vệ quyền, lợi ích
hợp pháp của trẻ em, người cao tuổi, người tàn tật và phụ nữ.”
Giúp đỡ nạn nhân, bảo vệ quyền và lợi ích của họ là điều cần thiết
và được pháp luật ghi nhận như một nguyên tắc quan trọng, mọi người đều phải
tuân theo. Những vấn đề về gia đình, trong đó có bạo lực gia đình thường không
nhận được sự quan tâm sâu sắc và đúng đắn của những người xung quanh, bởi vì họ
coi đấy là chuyện riêng, chuyện nội bộ của mỗi nhà. Từ đó, việc giúp đỡ nạn
nhân trở nên hạn chế, nhất là khi họ còn lo sợsự trả thù của người có hành vi
bạo lực. Ngoài ra việc giúp đỡ nạn nhân như thế nào, bằng những phương tiện gì
cũng gây cho họ những lúng túng nhất định, do đó pháp luật cho phép họ tùy khả
năng, tình hình mà đưa ra những xử sự phù hợp nhất, ưu tiên những đối tượng dễ
bị tổn thương như trẻ em, phụ nữ, người cao tuổi.
“Phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng đồng,
cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình.” Bạo lực gia đình từ lâu đã không còn là vấn đề
của mỗi gia đình mà còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ gây mất ổn định xã hội; do đó
việc phòng, chống bạo lực gia đình là trách nhiệm chung của cộng đồng chứ không
phải chỉ là của nhà nước và những người có liên quan. Bên canh đó, công tác
phòng, chống bạo lực gia đình vốn gặp nhiều khó khăn khi triển khai trên thực
tế, nên rất cần sự quan tâm phối hợp của tất cả các thành viên trong xã
hội.Việc quy định nguyên tắc này một lần nữa khẳng định tầm quan trọng cũng như
sự cần thiết của việc phát huy vai trò, trách nhiệm của cá nhân, gia đình, cộng
đồng, cơ quan, tổ chức trong phòng, chống bạo lực gia đình.
1. Quyền, nghĩa vụ của các chủ thể
a. Quyền, nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình
Quyền, nghĩa vụ của nạn nhân bạo lực gia đình được quy định cụ thể
tại Điều 5 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình, bao gồm:
1. Nạn nhân bạo lực gia đình có các quyền sau đây:
a) Yêu cầu cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ sức khỏe,
tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác của mình;
b) Yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng biện pháp ngăn
chặn, bảo vệ, cấm tiếp xúc theo quy định của Luật này;
c) Được cung cấp dịch vụ y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật;
d) Được bố trí nơi tạm lánh, được giữ bí mật về nơi tạm lánh và
thông tin khác theo quy định của Luật này;
đ) Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
2. Nạn nhân bạo lực gia đình có nghĩa vụ cung cấp thông tin liên
quan đến bạo lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu
cầu.
Nạn nhân bạo lực gia đình , những người bị chính người thân của
mình gây ra những tổn thương nhất định, rất cần được sự giúp đỡ của cộng đồng
và xã hội. Khi hành vi bạo lực đã xảy ra trong gia đình thì những thành viên
gia đình vì những mối quan hệ với người thực hiện hành vi bạo lực sẽ rất khó có
sự can thiệp mạnh mẽ, dứt khoát cần thiết để bảo vệ nạn nhân. Do đó, nạn nhân
cần sự giúp đỡ của các cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền bảo vệ, sức khỏe,
tính mạng, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc quy định đây là
quyền của nạn nhân, tức là nghĩa vụ của các chủ thể khác phải thực hiện là hoàn
toàn đúng đắn.
Bên cạnh đó, rất nhiều trường hợp, nạn nhân bạo lực gia đình cần
sự giúp đỡ về y tế, tư vấn tâm lý, pháp luật. Những tổn thương về thể chất có
thể chữa lành bằng sự chăm sóc y tế, nhưng với tổn thương về tâm lý, nạn nhân
không dễ dàng vượt qua được.Những sợ hãi, hoang mang, khủng hoảng
có thể theo
họ một thời gian dài, khiến họ không lấy lại sự cân bằng trong cuộc sống. Họ
rất cần được tư vấn tâm lý để vượt qua những nỗi ám ảnh này, họ cần được biết
rằng họ không có lỗi trong việc để hành vi bạo lực gia đình xảy ra, được hướng
dẫn phải xử sự như thế nào khi những hành vi này tiếp diễn. Đặc biệt, họ cần
biết những quy định của pháp luật về vấn đề này để nâng cao khả năng tự bảo vệ
trong những trường hợp tương tự.
Ngoài ra, nạn nhân cũng cần có một nơi để tạm lánh để có thời gian
cách li nhất định với người thực hiện hành vi bạo lực. Điều này có tác dụng làm
cho cả hai bên có thời gian, cơ hội để nhìn nhận sự việc một rõ ràng hơn, bình
tĩnh hơn. Với những kẻ thực hiện hành vi bạo lực một cách côn đồ, hung hãn,
không có điểm dừng thì nơi tạm lánh này là biện pháp hữu hiệu nhất để bảo vệ
nạn nhân.
Tuy nhiên, bên cạnh những quyền lợi như vậy, nạn nhân bạo lực gia
đình cũng phải thực hiện nghĩa vụ nhất định, đó là:cung cấp thông tin liên
quan đến bạo lực gia đình cho cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền khi có yêu
cầu. Do tính chất nhạy cảm của tội phạm, cũng như mối quan hệ đặc biệt của
các chủ thể, pháp luật không đặt ra nghĩa vụ của nạn nhân trong việc phòng
chống bạo lực gia đình hay tố giác người có hành vi bạo lực điều này hoàn toàn
hợp lý. Vậy tại sao lại quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin của nạn nhân? Bởi
vì bạo lực dù diễn ra trong gia đình nhưng lại ảnh hưởng tới sự phát triển
chung của toàn xã hội, do đó cần phải được xử lý kịp thời; nạn nhân cả bạo lực
cần được bảo vệ, nhưng họ cũng cần tự bảo vệ mình trong giới hạn nhất định, và
đó có thể coi là trách nhiệm của họ với cộng đồng, xã hội.
b. Nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình
Người có hành vi bạo lực gia đình là người đã gây ra những tổn hại
hoặc có khả năng gây tổn hại cho thành viên khác trong gia đình. Tại Điều 4
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy định rõ nghĩa vụ của họ, bao gồm:
1. Tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng; chấm dứt ngay
hành vi bạo lực.
2. Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.
3. Kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân
bạo lực gia đình, trừ trường hợp nạn nhân từ chối.
4. Bồi thường thiệt hại cho nạn nhân bạo lực gia đình khi có yêu
cầu và theo quy định của pháp luật.
Trước hết, khi thực hiện hành vi bạo lực và bị phát hiện, người có
hành vi bạo lực gia đình phải tôn trọng sự can thiệp hợp pháp của cộng đồng;
chấm dứt ngay hành vi bạo lực. Tôn trọng sự can thiệp có nghĩa là người có hành
vi bạo lực gia đình phải lắng nghe, thực hiện theo những yêu cầu chính đáng của
cộng đồng, không được có thái độ hung hãn, chống đối hay có ý định trả thù sự
can thiệp đó. Quy định này tưởng chừng như chung chung nhưng lại rất cụ thể và
sâu sắc. Người có hành vi bạo lực gia đình không chỉ thực hiện nghĩa vụ theo
yêu cầu của cộng đồng mà còn phải tôn trọng sự can thiệp đó, nghĩa là bản thân
họ phần nào nhận biết được tính đúng đắn của việc can thiệp, cũng như phải có
thái độ đúng mực với những người can thiệp.
Chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền cũng là
nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực. Trong lĩnh vực phòng chống bạo lực gia
đình, những chủ thể có thẩm quyền có thể đưa ra những chế tài như: góp ý, phê
bình trong cộng đồng dân cư, áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị
trấn. Việc bị xử lý hành vi bạo lực gia đình vốn không quen thuộc với người
Việt, vì rất nhiều nghĩ đó là quyền của họ. Do đó, quy định người có hành vi
bạo lực có nghĩa vụ chấp hành quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền là
cần thiết để tạo ra cơ sở pháp lý mạnh mẽ, buộc chủ thể phải thực hiện, bảo đảm
hiệu quả của công tác phòng, chống bạo lực gia đình.
Với những trường hợp nạn nhân bị tổn thương về thể chất hoặc tinh
thần, cần tới sự can thiệp của y tế thì người thực hiện hành vi bạo lực phải
kịp thời đưa nạn nhân đi cấp cứu, điều trị; chăm sóc nạn nhân bạo lực gia đình,
trừ trường hợp nạn nhân từ chối. Đây tưởng chừng như điều hiển nhiên, là ứng xử
bắt buộc của các thành viên gia đình đối với nhau, nhưng lại là điều rất khó
thực hiện khi một bên là chủ thể, một bên là nạn nhân của hành vi bạo lực.
Người có hành vi bạo lực khi đã nhẫn tâm ra tay thì rất khó có chuyện thương
xót, lo lắng cho nạn nhân mà đưa họ đi chữa trị, chăm sóc; hoặc có khi họ nhận
thấy sai lầm của mình nhưngdo sợ bị phát hiện, sợ phải gánh trách nhiệm nên
không dám đưa nạn nhân tới cơ sở chữa trị.
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình không nhắc tới quyền mà chỉ quy
định nghĩa vụ của người có hành vi bạo lực gia đình. Điều này trước hết có lẽ
bởi vì những người này đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật, nên họ phải chịu
những trách nhiệm nhất định và không được hưởng sự bảo vệ của pháp luật trong
lĩnh vực này. Tuy nhiên, nếu nhìn nhận theo một khía cạnh thì có thể thấy:
nghĩa vụ mà Luật nêu lên cũng đã hàm chứa một số quyền của họ: quyền nhận được
sự can thiệp hợp pháp, quyền được thực hiện các hành động nhằm khắc phục hậu
quả do hành vi của mình gây ra. Nếu nhìn nhận một cách tổng quát, có thể thấy
rằng những hành vi bạo lực gia đình xuất phát từ sự nhẫn tâm, tàn ác, đê hèn
không nhiều mà do những quan niệm sai lầm, do thiếu hiểu biết, do không được
trang bị kỹ năng giải quyết tranh chấp hoặc do nóng giận. Do đó, pháp luật cũng
cần phải cho họ những cơ hội để giác ngộ, sửa chữa sai lầm, cũng là tạo cơ hội
cho gia đình của họ được hàn gắn.
2. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình và các cơ quan tổ chức trong
phòng, chống bạo lực gia đình
a. Trách nhiệm của cá nhân, gia đình
Điều 32 Luật Phòng, chống bạo lực gia đình quy đinh về trách nhiệm gia đình và các thành
viênnhư sau:
1.Giáo dục, nhắc nhở thành viên gia đình thực hiện quy định
củapháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng
giới, phòng, chống ma túy, mại dâm và các tệ nạn xã hội khác.
2. Hòa giải mâu thuẫn, tranh chấp giữa các thành viên gia đình;
can ngăn người có hành vi bạo lực gia đình chấm dứt hành vi bạo lực; chăm sóc
nạn nhân bạo lực gia đình.
3. Phối hợp với cơ quan, tổ chức và cộng đồng dân cư trong phòng,
chống bạo lực gia đình.
4. Thực hiện các biện pháp khác về phòng, chống bạo lực gia đình
theo quy định của Luật này.
Phải khẳng định rằng gia đình và thành viên gia đình đóng một vai
trò rất quan trọng trong công tác phòng, chống bạo lực gia đình. Bất cứ thành
viên nào trong gia đình cũng có thể có hành vi bạo lực gia đình: con mắng cha,
vợ chì chiết chồng, mẹ chồng ruồng rẫy con dâu, anh em tranh chấp tài sản dẫn
đến đánh nhau....; đồng thời chính họ cũng dễ dàng trở thành nạn nhân của bạo
lực gia đình. Tuy nhiên, ở đây chúng ta chỉ đề cập dưới một khía cạnh là người
chứng kiến bạo lực gia đình. Cùng chung sống dưới một mái nhà, họ là người chịu
tác động trực tiếp của hành vi, có khả năng phát hiện nhanh chóng cũng như tìm
hiểu nguyên nhân, diễn biến, mức độ của hành vi bạo lực; họ cũng là người có
khả năng thành công trong việc giáo dục, thuyết phục người có hành vi bạo lực
thay đổi hành vi bởi hai bên có sự hiểu biết nhau, có mối quan hệ thân thiết
nhau...
Tuy nhiên, trên thực tế đã cho thấy nhiều trường hợp các thành
viên khác trong gia đình đã tiếp tay cho hành vi bạo lực như: mẹ xúi con trai
giáo dục vợ bằng nắm đấm; ông bà yêu cầu phải nghiêm khắc dạy dỗ cháu...
Những hành động này phần nhiều không xuất phát từ ý xấu mà chỉ do quan niệm
khác nhau của mỗi người, nhưng lại tác động rất lớn đến người thực hiện hành vi
bạo lực.
Chính vậy pháp luật đã quy định gia đình và các thành viên gia
đình phải có những trách nhiệm, phải có sự chủ động nhất định trong phòng,
chống bạo lực gia đình: giáo dục, nhắc nhở, hòa giải mâu thuẩn giữa các thành
viên, ngăn chặn người có hành vi bạo lực; chăm sóc nạn nhân...Đây là những việc
họ hoàn toàn có khả năng thực hiện, còn việc có thực hiện hay không, thực hiện
như thế nào thì lại phụ thuộc vào mỗi người, mỗi gia đình, mỗi hoàn cảnh. Pháp
luật không quy định đây là nghĩa vụ mà chỉ là trách nhiệm của gia đình và các
thành viên. Tuy nhiên, nếu có những hành vi bị cấm trong phòng, chống bạo lực
gia đình thì họ phải chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật:
* Điều 8.
Những hành vi bị nghiêm cấm
1. Các hành vi bạo lực gia đình quy định tại Điều 2 của Luật này.
2. Cưỡng bức, kích động, xúi giục, giúp sức người khác thực hiện
hành vi bạo lực gia đình.
3. Sử dụng, truyền bá thông tin, hình ảnh, âm thanh nhằm kích động
bạo lực gia đình.
4. Trả thù, đe doạ trả thù người giúp đỡ nạn nhân bạo lực gia
đình, người phát hiện, báo tin, ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình.
5. Cản trở việc phát hiện, khai báo và xử lý hành vi bạo lực gia
đình.
6. Lợi dụng hoạt động phòng, chống bạo lực gia đình để trục lợi hoặc
thực hiện hoạt động trái pháp luật.
7. Dung túng, bao che, không xử lý, xử lý không đúng quy định của
pháp luật đối với hành vi bạo lực gia đình.
Những hành vi cấm này không chỉ áp dụng với các thành viên gia
đình mà còn áp dụng cả những cá nhân không phải là thành viên gia đình. Bên
cạnh đó, Luật Phòng, chống bạo lực gia đình còn quy định rõ trách nhiệm của các
cá nhân:
* Điều 31. Trách nhiệm của cá nhân
1. Thực hiện quy định của pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình, hôn nhân và gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma túy, mại dâm và các
tệ nạn xã hội khác.
2. Kịp thời ngăn chặn hành vi bạo lực gia đình và thông báo cho cơ
quan, tổ chức, người có thẩm quyền.
Những quy định này nhằm nâng cao tính chủ động, tính cực của các
cá nhân trong xã hội đối với việc phòng, chống bạo lực gia đình cũng như giúp
đỡ nạn nhân.
b. Trách nhiệm của cơ quan, tổ chức khác
Luật Phòng, chống bạo lực gia đình đã nêu lên trách nhiệm của rất
nhiều cơ quan, tổ chức, trong đó có thể kể tới trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc
Việt Nam và các tổ chức thành viên, cụ thể:
* Điều 33. Trách nhiệm của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ
chức thành viên
1. Tuyên truyền, giáo dục, khuyến khích, động viên hội viên và
nhân dân chấp hành pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình,hôn nhân và gia
đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma túy, mại dâmvà các tệ nạn xã hội khác.
2. Kiến nghị những biện pháp cần thiết với cơ quan nhà nước có
liên quan để thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình,hôn nhân và
gia đình, bình đẳng giới, phòng, chống ma túy, mại dâmvà các tệ nạn xã hội
khác; tham gia phòng, chống bạo lực gia đình, chăm sóc, hỗ trợ và bảo vệ nạn
nhân bạo lực gia đình.
3. Tham gia giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình.
Bên cạnh đó, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam - Một thành viên của
Mặt trận Tổ quốc cũng được giao một số trách nhiệm, như:
* Điều 34. Trách nhiệm của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
1. Thực hiện trách nhiệm quy định tại Điều 33 của Luật này.
2. Tổ chức cơ sở tư vấn về phòng, chống bạo lực gia đình, cơ sở hỗ
trợ nạn nhân bạo lực gia đình.
3. Tổ chức các hoạt động dạy nghề, tín dụng, tiết kiệm để hỗ trợ
nạn nhân bạo lực gia đình.
4. Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan để bảo vệ và hỗ trợ
nạn nhân bạo lực gia đình.
Ngoài ra, Luật cũng quy định:
1. Chính phủ thống nhất quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực
gia đình.
2. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch chịu trách nhiệm trước Chính
phủ thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình.
3. Bộ, cơ quan ngang bộ trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình
có trách nhiệm phối hợp với Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịchthực hiện quản lý
nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình.
4. Uỷ ban nhân dân các cấp trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của
mình có trách nhiệm thực hiện quản lý nhà nước về phòng, chống bạo lực gia đình
tại địa phương. Trách
nhiệm của một số Bộ, ngành cũng được cụ thể tại các Điều từ 36 đến Điều 41).
3 / Xử lý vi phạm pháp luật về Phòng, chống bạo lực gia đình
Điều 42 Luật Phòng chống bạo lực gia đình quy định về xử lý người
có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình như sau:
1. Người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia
đình tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý vi phạm hành chính, xử lý
kỷ luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự; nếu gây thiệt hại thì phải bồi
thường theo quy định của pháp luật.
2. Cán bộ, công chức, viên chức, người thuộc lực lượng vũ trang
nhân dân có hành vi bạo lực gia đình nếu bị xử lý vi phạm hành chính theo quy
định của khoản 1 Điều này thì bị thông báo cho người đứng đầu cơ quan, tổ chức,
đơn vị có thẩm quyền quản lý người đó để giáo dục.
3. Chính phủ quy định cụ thể các hành vi vi phạm hành chính về
phòng, chống bạo lực gia đình, hình thức xử phạt, biện pháp khắc phục hậu quả
đối với người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo lực gia đình..
Như vậy, người có hành vi vi phạm pháp luật về phòng, chống bạo
lực gia đình có thể bị xử lý bằng các biện pháp khác nhau, cụ thể: Xử lý kỷ
luật, Xử lý hành chính; Xử lý theo pháp luật dân sự; Xử lý theo pháp luật hình
sự./.